Vai trò quan trọng của việc duy trì gắn bó mẹ con trong những năm đầu đời là rất to lớn.
“...Công trình nghiên cứu tiên phong của Harry Harlow về những con khỉ không Mẹ tạo ra một cá thể khỉ cực kỳ bất bình thường về phương diện cá nhân. Những con đó không có khả năng phản ứng trước những con Khỉ khác; không thể thực thi vai trò của chúng trong hệ thống thang bậc đang có; chúng sợ sệt co rúm lại hoặc hung hãn tấn công trong những tình huống không thích hợp; Chúng tỏ ra không có khả năng nuôi dưỡng chính con cái của mình nếu chúng có thể sinh con đẻ cái được..”
“Những nghiên cứu của Spitz và Wolf (1935) tại nhà trẻ mồ côi và tại trại giam cho thấy, cảm giác an toàn của trẻ nhờ đôi bàn tay mẹ có liên quan đến việc tập đi. Và sự âu yếm tình cảm khi người mẹ gọi con đã làm cho con ham nói, ham đi. Những nghiên cứu về trẻ em có hội chứng “vắng mẹ” (hospitalism) hay trẻ bị cách li quá lâu với cha mẹ do chiến tranh cũng chỉ ra các rối loạn tâm lí trẻ em, mà biểu hiện điển hình là chứng nhiễu tâm, kém thích nghi xã hội.
Đến năm 1946, Spitz tiếp tục có thêm mô tả về một dạng khác của rối loạn tâm thần ở trẻ nhỏ - rối loạn gắn bó, với tên gọi: trầm cảm vắng mẹ (anaclitic depression). Dạng rối loạn này xảy ra chủ yếu ở trẻ nhỏ khi vắng mẹ quá 3 tháng trong thời gian từ 6 đến 12 tháng tuổi. Sự vắng mẹ gây ra những triệu chứng rối loạn về cả thể chất và tâm lý cho trẻ như tự cô lập, tránh tiếp xúc xã hội, sụt cân, khó ngủ, từ chối ăn, chậm phát triển tâm vận động, dễ bị nhiễm khuẩn, tự kích thích bằng những hành vi rập khuôn và có ánh nhìn xa xăm..”
Trong bối cảnh ảnh hưởng của sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế xã hội trên phạm vi toàn cầu kéo theo lượng thời gian cho công việc và các mối quan hệ xã hội của người lớn ngày một gia tăng. Ở Việt Nam có thể thấy một hiện trạng rằng thời gian mà bố mẹ dành cho con cái ngày càng ít đi.
Đây là thông tin được bà M.Zaman, Phó đại diện UNICEF đưa ra tại lễ công bố kết quả điều tra toàn quốc đầu tiên về gia đình tại Việt Nam. Kết quả cuộc điều tra cho thấy, 20% các ông bố và 7% các bà mẹ hoàn toàn không dành một chút thời gian nào cho việc chăm sóc con cái do phải lo kiếm sống.
Đây là một hiện trạng đáng báo động, trong khi Chính phủ đã có quyết định tăng mức nghỉ thai sản từ 4 lên 6 tháng cho người mẹ, chứng tỏ rằng các nhà hoạch định chính sách đã nhận thức được vai trò quan trọng của việc duy trì gắn bó Mẹ - Con trong những năm đầu đời.
|
|
Nhà tâm lí học người Anh John Bowlby (1907-1990) được xem là người đầu tiên đưa khái niệm “sự gắn bó” vào tâm lí học. Sự gắn bó được ông định nghĩa là “những liên kết tâm lí bền vững giữa con người với con người”.
Học thuyết Gắn bó được coi là một trong những học thuyết kinh điển trong lĩnh vực Tâm lý học về trẻ em nói riêng. Trong đó các lý thuyết và thực nghiệm chỉ ra đặc điểm và vai trò của sự duy trì một mối quan hệ an toàn giữa trẻ nhỏ và người chăm sóc (Mẹ) trong những năm đầu đời (0 –3), quá trình này không những ảnh hưởng tới sự phát triển lành mạnh của đứa trẻ mà còn thể hiện sự ảnh hưởng xuyên suốt với 1 cá nhân trong toàn bộ quá trình trưởng thành.
Bắt đầu từ khi chào đời cho tới 3 tuổi đặc điểm Gắn bó đã xuất hiện ở đứa trẻ, giai đoạn trẻ thể hiện mạnh mẽ nhất nhu cầu gắn bó của mình là từ 6 tháng đến trước 3 tuổi. Đây là giai đoạn trong Phân tâm học cho rằng trẻ đang chưa thể hiện một cái tôi rõ ràng, cái tôi của trẻ nhập cùng với hình ảnh người Mẹ. Vì vậy người Mẹ đóng vai trò vô cùng quan trọng, vừa là người chăm sóc, vừa là cầu nối giữa trẻ với thế giới bên ngoài. Niềm tin của trẻ vào người Mẹ chính là sự phản ảnh niềm tin của trẻ với thế giới.
Nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ với thuyết Đa trí thông minh Howard Gardner đã viết trong cuốn sách của mình rằng: “..Các dạng trí khôn cá nhân bắt nguồn từ mối quan hệ ràng buộc giữa đứa trẻ và người chăm sóc nó, trong hầu hết các trường hợp đó là gắn bó mẹ-con”.
Các giai đoạn gắn bó của trẻ
John Bowlby chia các giai đoạn gắn bó của trẻ thành 4 giai đoạn.
Tìm kiếm 0-3 tháng: Với giới hạn của các cơ quan thụ cảm, sự gắn bó của trẻ chưa hướng đến đối tượng cụ thể, chưa tỏ ra khó chịu khi người lạ bế ẵm. Trẻ tỏ ra thích nghe giọng nói của con người hơn là những âm thanh khác, thích nghe giọng nói của mẹ hơn là của người khác. Đến 2 tháng tuổi, trẻ bắt đầu biết thể hiện nhu cầu gắn bó qua những giao tiếp bằng mắt.
|
|
Thiết lập 3-6 tháng: Biết cười đáp lại những giọng nói và sự tiếp xúc cơ thể từ bất kì ai để duy trì sự tương tác, nhưng những phản ứng này đã trở nên chọn lọc hơn, nhạy với người nuôi dưỡng hơn là với người lạ. Trẻ bắt đầu biết phân biệt người quen với người lạ. Trẻ chưa biểu hiện rõ rệt cảm giác lo âu khi phải tạm xa mẹ
Đỉnh cao 6 - 24 tháng: Phân biệt được cha mẹ với người lạ và thể hiện sự gắn bó rất chọn lọc. Nhu cầu được gần gũi mẹ rất lớn. Các biểu hiện của mong muốn này được trẻ bộc lộ rõ và chủ động hơn. Xuất hiện sự lo âu rõ rệt khi phải xa cách mẹ. Khi đó, nếu người lạ xuất hiện, trẻ sẽ biểu hiện những phản ứng rất mạnh và bột phát
Duy trì 2- >3 tuổi: Thích ứng được với việc xa mẹ tạm thời và sự xuất hiện của người lạ. Cảm giác được an toàn của trẻ ổn định hơn. Đối tượng và mục tiêu gắn bó được mở rộng ra.
Trong những tháng tuổi đầu đời, đứa trẻ hình thành một mối quan hệ tiềm tàng với người Mẹ. Được sự hỗ trợ và chăm sóc từ phía người Mẹ bởi những năng lực cơ thể của trẻ chưa đủ để nó có thể “ vắng mẹ”, từ sự phụ thuộc về vật chất trẻ cũng chịu sự thu hút đặc biệt từ phía người Mẹ về mặt tình thần, nó có xu hướng bắt chước những gì mà người Mẹ làm, thể hiện cảm xúc tương đương với cảm xúc của người Mẹ. Cùng với đó là sự cuốn hút mạnh mẽ của tình cảm người Mẹ dành cho đứa Con.
Trong giai đoạn này sự bộc lộ nhu cầu của trẻ chủ yếu thông qua tiếng khóc, đây là 1 đặc điểm người phụ huynh cần chú ý khi chăm sóc trẻ, không nên ép trẻ nín khóc, hoặc vội vàng thoả mãn nhu cầu khi trẻ khóc. Cần dành thời gian lắng nghe và hiểu nhu cầu của trẻ qua những đặc điểm khác nhau của tiếng khóc: Khóc đói, khóc ngủ, khóc do gặp nguy hiểm, khóc ăn vạ…
|
|
Trẻ nhỏ tới 1 tuổi sợi dây gắn kết Mẹ - Con đạt trạng thái tối đa, đứa trẻ sẽ bộc lộ những lo âu nếu đột ngột bị cách ly khỏi Mẹ hoặc thể hiện sự sung sướng khi được nhìn thấy Mẹ, được Mẹ yêu thương. Đứa trẻ tìm cách duy trì cảm giác hạnh phúc khi được ở bên Mẹ và tránh tối đa các trạng thái đau khổ hoặc lo âu. Thực tế chúng ta thường thấy giai đoạn này có những em bé suốt ngày bám chân Mẹ, mẹ đi là khóc, mẹ về là cười, cực kỳ phụ thuộc cảm xúc vào người Mẹ.
Có một lưu ý ở đây như sau: Để thiết lập được một sự gắn bó An toàn trong giai đoạn Duy trì ( 2 – 3 tuổi ) phụ huynh cần chú ý một thuật ngữ đó là “ Chơi vui vẻ dưới chân người Mẹ”. Tức là phải luyện tập được cho đứa trẻ nhận thức được rằng: Trẻ hoàn toàn có thể chơi một mình ở một khoảng cách an toàn so với mẹ, nhưng khi trẻ cần nó có thể quay trở lại và tìm thấy Mẹ mình ở đó.
Nghĩa là chuẩn bị cho trẻ tâm thế hoạt động độc lập nhưng không cảm thấy bị bỏ mặc và thiếu an toàn. Một số trò chơi, kỹ thuật tâm lý có thể giúp được trẻ như:
- Trò chơi ú oà: Mục đích cho trẻ nhận ra rằng, khuôn mặt mẹ hoặc đồ vật vẫn ở đây chỉ là nó bị che đi thôi
- Trò chơi tìm vật trong chăn
- Trò chơi trốn tìm với Mẹ.
- Trò chơi Nhà mẹ nhà Con
...........
|
|
Khi trẻ bắt đầu lên 2 tuổi sự nhận thức về cái tôi của trẻ rõ ràng hơn, Con đã bắt đầu biết sử dụng một số cụm từ như: Của con, của Mẹ, cho Con, cho Mẹ, Con biết…..trẻ nhận ra bản ngã của mình giữa xã hội, nhận ra người khác. Có sự phân biệt rõ ràng giữa Người thân và người lạ. Trẻ đã chấp nhận sự có mặt của người lạ trong cuộc sống của mình. Vì thế mà sợi dây gắn bó Mẹ - Con bắt đầu lỏng lẻo. Đây là giai đoạn mà chúng ta đưa trẻ vào Mầm non để con có những sự làm quen và hoà nhập với bạn bè, Thầy cô, tạo bước đà cho việc trẻ chuyển mình sang giai đoạn đứa trẻ xã hội (3 – 5).
Một số đặc điểm để nhận diện một mối quan hệ Mẹ - Con là an toàn hay không?
Dựa trên nền tảng thuyết gắn bó của John Bowlby, Mary Ainsworth đã tiến hành các thực nghiệm gọi là “tình huống kì lạ” trên các trẻ từ 12-18 tháng tuổi và phân loại sự gắn bó thành 3 dạng. Kết quả được rút ra từ sự quan sát biểu hiện cảm xúc của trẻ khi mẹ rời khỏi phòng và khi mẹ quay trở lại. Các dạng gắn bó trong quan hệ mẹ-con theo Mary Ainsworth.
- Bền chặt:
+ Biểu hiện khi mẹ rời khỏi phòng: Khóc, lo lắng
+ Biểu hiện khi mẹ quay về phòng : Nhanh chóng vui vẻ trở lại
- Chống đối
+ Biểu hiện khi mẹ rời khỏi phòng: Khóc, rất lo âu, cáu gắt
+ Biểu hiện khi mẹ quay về phòng : Giận dỗi, ấm ức, phải dỗ dành nhiều
- Trốn tránh
+ Biểu hiện khi mẹ rời khỏi phòng: Không khóc hay lo lắng
+ Biểu hiện khi mẹ quay về phòng : Không quan tâm, không vui mừng
Tin bài: Theo vietnammoi.vn